VIỆT NAM MẤT BIỂN ĐẢO TỪ ĐÂU ? CÁCH NÀO ĐỂ GIỮ BIỂN, GIỮ NƯỚC ?

VIỆT NAM MẤT BIỂN ĐẢO TỪ ĐÂU ? CÁCH NÀO ĐỂ GIỮ BIỂN, GIỮ NƯỚC ?

Trả lời ngay, Việt Nam mất biển đảo từ Việt cộng mà nguồn cơn bắt đầu từ việc thủ tướng cộng sản Bắc Việt ký công hàm năm 1958 gửi Chu Ân Lai rồi sau đó Việt cộng đơn phương xé bỏ Hiệp định Ba Lê 1973 để bức tử chủ nhà hợp pháp của Biển Đông là chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa.

Việc phía Việt cộng luôn chối bỏ tính pháp lý của công hàm 1958 và cho rằng công hàm chết tiệt này không phù hợp với Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 nhưng đó chỉ là lặp luận của một bên là Việt cộng bởi vì Việt cộng không thể phủ nhận vai trò Thủ tướng của Phạm Văn Đồng cũng như thời điểm khai sanh công hàm năm 1958 với Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982.

Bởi vì xét về yếu tố lịch sử, một yếu tố quan trọng để khẳng định chủ quyền thì rõ ràng công hàm 1958 ra đời trước công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 tới 2 con giáp. Như vậy Tàu cộng có lý lẽ để khẳng định chủ quyền phi pháp của nó trên Biển Đông dựa theo nội dung và tính lịch sử của công hàm 1958 do Phạm Văn Đồng ký bán cho Tàu cộng.

Việt cộng chối leo lẻo vì theo nội dung công hàm 1958, xin trích lại là "Chánh phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 04/9/1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chánh phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển".

Việt cộng chối leo lẻo với lập luận rằng "Công hàm không nêu tên bất cứ quần đảo nào cũng không từ bỏ chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa". Quả đúng vậy, trong công hàm 1958 Phạm Văn Đồng không nêu tên chi tiết để thừa nhận Tàu cộng có chủ quyền với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên đây là một công hàm hồi đáp lại yêu cầu xác nhận chủ quyền của Tàu cộng nên việc không nêu chi tiết của Phạm Văn Đồng không có nghĩa là phủ nhận yêu sách phi lý, phi pháp của Chu Ân Lai. Bởi vì:

Trước đó, vào ngày 04/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chánh phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam Cộng Hòa mà Tàu cộng gọi là Tây Sa và Nam. Mười ngày sau, vào ngày 14/9/1958, chính thủ tướng cộng sản Bắc Việt Phạm Văn Đồng đã gửi Công hàm cho Thủ tướng Tàu cộng Chu Ân Lai như đã nói trên.

Xét ý nghĩa về mặt nội dung của tuyên bố về hải phận 12 hải lý của Tàu cộng bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam Cộng Hòa và công nhận của Phạm Văn Đồng tại công hàm 1958 thì cả hai đều có chung một ý nghĩa là Chu Ân Lai yêu cầu Việt cộng xác nhận thì Việt cộng gật đầu ký xác nhận ngay. Việc ký xác nhận của Phạm Văn Đồng không cần chi tiết, cụ thể bởi tất cả đều được Chu Ân Lai liệt kê. Nó cũng giống như việc Chu Ân Lai chìa ra tờ giấy yêu cầu Phạm Văn Đồng xác nhận rằng "lăng Ba Đình là của tao" với diện tích, vật kiến trúc cụ thể thì nếu Phạm Văn Đồng ký xác nhận OK thì nghiễm nhiên Phạm Văn Đồng đã thừa nhận toàn bộ thực thể nằm trong phạm vi lăng Ba Đình đều thuộc về Chu Ân Lai mà không xét đến việc Phạm Văn Đồng có nói đến cái xác khô đang nằm trong đó không phải là của Chu Ân Lai hay không.

Vì Phạm Văn Đồng đã ký xác nhận yêu cầu của Chu Ân Lai tại công hàm ngày 14/9/1958 về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Tàu cộng và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam Cộng Hòa nên Việt cộng có dám cãi chày cãi cối tại Liên Hợp quốc thì Việt cộng cũng đuối lý vì rõ ràng Việt cộng đã thừa nhận chủ quyền 12 hải lý của Tàu cộng rồi thì cãi gì nữa mà cãi.

Từ đó, Tàu cộng vin vào cái công hàm bán khống Biển Đông của Phạm Văn Đồng mà áp vào Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 để tiến hành vẽ đường cơ sở, lãnh hải, thềm lục địa của nó trên cơ sở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được Phạm Văn Đồng xác nhận chung chung là của nó. Biển Đông của tổ tiên ta để lại cho nhân dân Việt Nam và nhân dân Việt Nam ủy thác cho chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa quản lý đã mất đi cùng lúc với việc Việt cộng đơn phương xé bỏ Hiệp định Ba Lê 1973 để bức tử Việt Nam Cộng Hòa.

Nếu Tàu cộng mạnh lên và Việt cộng vẫn ngon lành cai trị dân tộc Việt Nam thì chắc chắn dân tộc Việt Nam không còn một tấc biển để ngâm ghẻ. Khi dân tộc Việt Nam mất biển thì đất liền cũng không giữ được và lúc đó dân tộc Việt Nam có muốn vượt biên bằng đường biển để tị nạn Tàu cộng cũng không được. Bởi vì:

Tàu cộng nó căn cứ vào công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng và Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 nó sẽ đẩy thềm lục địa của nó vào sâu trong đất liền của Việt Nam. Vì theo Công ước quốc tế thì mép chiều rộng tối đa của thềm lục địa là 350 hải lý. Tàu cộng vin vào công hàm 1958 để nhận vơ Hoàng Sa và Trường Sa là của nó thì nó sẽ lấy hai quần đảo này vẽ lên đường cơ sở rồi áp thềm lục địa vào. Lúc này thềm lục địa của Tàu cộng sẽ xâm phạm vào đất liền của Việt Nam vì chúng quá đã biết đảo Trường Sa Lớn chỉ cách Cam Ranh có 254 hải lý và cách Vũng Tàu có 270 hải lý.

Khốn nạn thêm là việc Việt cộng đã triển khai cấm biển "khu vực biên giới biển" tại 28 tỉnh thành ven biển trong lúc Tàu cộng gia tăng yêu sách chủ quyền ở Biển Đông và Việt cộng không dám kiện Tàu cộng ra tòa PCA để chính thức xác định chủ quyền hợp pháp ở Biển Đông, để chính thức xác định biên giới trên biển theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển và chủ quyền hợp pháp theo phán quyết của tòa PCA.

Bởi vì khi Việt cộng cấm biển báo khu vực biên giới biển thì Tàu cộng có thể cả vú lấp miệng em chỉ vào cái biển này, chỉ vào công hàm 1958 rồi chỉ vào qui định chiều rộng tối đa của thềm lục địa tại Công ước 1982 rồi phán "biên giới biển của mày tính từ cái biển này trở vào". Việt cộng có dám cãi, dám đánh nó không?

Tóm lại, nguyên nhân mất biển là do công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng vì tại cái công hàm này mà Việt cộng không bao giờ dám kiện Tàu cộng ra tòa PCA bởi kiện thì phải hủy công hàm, hủy công hàm do Phạm Văn Đồng ký là điều không thể khi Việt cộng còn nắm quyền cai trị. Vì vậy muốn hủy công hàm 1958 để kiện Tàu cộng ra tòa PCA thì phải lật lại Hiệp định Ba Lê 1973, lật lại Hiệp định Ba Lê 1973 thì phải tổng tuyển cử tự do, để tổng tuyển cử tự do thì phải xóa bỏ Hiến pháp của Việt cộng. Xóa bỏ Hiến pháp của Việt cộng đồng nghĩa với việc xóa sổ Việt cộng.

Như vậy để không mất biển, mất nước vào tay Tàu cộng thì phải xóa sổ Việt cộng, xóa sổ Việt cộng bằng vũ lực là rất khó vì nó có Tàu cộng chống lưng. Chỉ duy nhứt để xóa sổ Việt cộng là kêu gọi cộng đồng quốc tế đặc biệt là Mỹ phải tái tục lại Hiệp định Ba Lê 1973 bằng việc lập một nhà nước mới không cộng sản với quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam qua lá phiếu bầu cử tự do có giám sát của cộng đồng quốc tế./.

Tran Hung.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TẠI SAO TRUNG QUỐC PHẢI SỤP ĐỖ

CÁCH VIỆT CỘNG HÚT NỘI LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ CÁCH PHỤC QUỐC CỦA NGƯỜI DO THÁI MÀ CHÚNG TA CẦN HỌC HỎI VÀ THỰC HÀNH

CHÂN TƯỚNG TÊN VIỆT CỘNG NẰM VÙNG CHIẾN LƯỢC TẠI ĐẦU NÃO CHỐNG CỘNG WESTMINSTER ĐÃ LỘ RÕ QUA TÊN KINH TÀI HOA NAM Phạm Nhật Vượng