BIỂN ĐÔNG GIỜ CỦA AI ? LÀM CÁCH NÀO ĐỂ DÂN TỘC VIỆT NAM LẤY LẠI VÀ GÌN GIỮ ?

BIỂN ĐÔNG GIỜ CỦA AI ? LÀM CÁCH NÀO ĐỂ DÂN TỘC VIỆT NAM LẤY LẠI VÀ GÌN GIỮ ?

Dứt khoát Biển Đông là của toàn dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý để khẳng định chủ quyền hợp pháp ở Biển Đông không thể chối cãi.

Vậy tại sao Tàu cộng dám vi phạm thô bạo chủ quyền hợp pháp của dân tộc Việt Nam ở Biển Đông, lại dám ngang ngược tuyên bố Việt cộng cản trở việc thực thi chủ đích hợp pháp của nó ở Biển Đông sau tuồng diễn ở Bãi Tư Chính vừa rồi ?

Như đã nói, dân tộc Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý để khẳng định chủ quyền hợp pháp ở Biển Đông không thể chối cãi. Tổ Quốc Việt Nam là của dân tộc Việt Nam muôn đời và muôn kiếp. Vì vậy, dẫu có xảy ra ly loạn, phân qua, dẫu có bị chia đôi, chia ba thì mỗi tấc đất, mỗi mét biển, đảo do tiền nhơn để lại đều là tài sản chung của con dân Việt Nam dù họ đang sinh sống ở đâu. Điều này cũng đã được xác nhận tại Hiệp định Geneva 1954 và được Hiệp định Ba Lê 1973 kế thừa và Hiến pháp của Việt Nam Cộng Hòa cũng đã tuyên cáo.

Vì vậy, trước yêu cầu của Chu Ân Lai về việc xác nhận phạm vi lãnh hải 12 hải lý của Tàu cộng bao gồm cả 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của dân tộc Việt Nam mà Tàu cộng gọi là Tây Sa và Nam Sa, thủ tướng cộng sản Bắc Việt lúc bấy giờ đã không đắn đo xác nhận.

Vậy thì công thư của Phạm Văn Đồng có được xem là văn bản pháp lý hay không trong khi tại Hiệp định Geneva 1954 đã phân định rõ quyền quản lý tạm thời về lãnh thổ giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa (quản lý tạm thời lãnh thổ của Việt Nam từ vỹ tuyến 17 trở ra) và Quốc gia Việt Nam sau này là Việt Nam Cộng Hòa (quản lý tạm thời lãnh thổ Việt Nam từ vỹ tuyến 17 trở vào).

Theo Hiệp định Geneva 1954 thì công hàm 1958 do Phạm Văn Đồng ký không có giá trị pháp lý vì tất cả các đảo, vùng biển từ vỹ tuyến 17 trở vào do Quốc gia Việt Nam quản lý. Tuy nhiên, xét về tư cách "người làm chứng" thì công hàm 1958 của cộng sản Bắc Việt là một "lời chứng" làm cơ sở cho Tàu cộng áp đặt chủ quyền trên toàn bộ Biển Đông của Việt Nam.

Nói một cách bình dân thế này, khi Chu Ân Lai tuyên bố chủ quyền 12 hải lý ở Biển Đông, nếu không có công hàm 1958 của cộng sản Bắc Việt xác nhận thì tuyên bố của Chu Ân Lai là một tuyên bố ĐƠN PHƯƠNG, PHI PHÁP, KHÔNG CÓ GIÁ TRỊ. Nó cũng như việc khi anh A vác hồ sơ đến cơ quan quản lý điền địa để xác nhận và xin cấp giấy chứng thư kiến điền, cơ quan quản lý điền địa sẽ yêu cầu anh A phải trưng ra tối thiểu 2 thứ giấy tờ, đó là:

- Nguồn gốc đất đai;
- Lời chứng của các chủ đất đai trong diện "Đông, Tây tứ cận".

Như vậy, công hàm 1958 của cộng sản Bắc Việt đích thị là "Lời chứng" với tư cách "Đông, Tây tứ cận" để làm cơ sở cho Tàu cộng đòi hỏi chủ quyền phi pháp ở Biển Đông của Việt Nam Cộng Hòa. Chính vì sự hồ đồ, bản chất bán nước, bản chất kẻ đánh thuê cho Tàu cộng của cộng sản Bắc Việt tại cái công hàm 1958 này mà Việt cộng không dám vì không có tư cách pháp nhân đứng đơn khởi kiện Tàu cộng ra tòa PCA. Cũng chính từ cái công hàm bán nước này mà Tàu cộng mạnh họng tuyên bố chủ quyền phi pháp ở Biển Đông và lên giọng răn đe Việt cộng đã cản trở việc thực hiện chủ quyền của Tàu cộng ở Biển Đông.

Chủ quyền ở Biển Đông là thực tế khẳng định "Việt cộng có họng ăn nhưng không có họng nói" vì nói ra là tự nhổ vào mặt của hồ chí minh - Phạm Văn Đồng mà cái công hàm 1958 kia là bằng chứng không thể chối cãi. Nhưng với dân tộc Việt Nam thì dẫu không được ăn nhưng mãi mãi có quyền được nói về chủ quyền Biển Đông nếu tất cả đều dám cất lên tiếng nói.

Hai cái loa có công suất cực đại để nhân dân Việt Nam cất lên tiếng nói về chủ yếu hợp pháp của dân tộc Việt Nam ở Biển Đông đó là cái loa Hiệp định Geneva 1954. Giá trị pháp lý mang tính lịch sử mới nhứt chính là Hiệp định Geneva 1954. Không tin tui nói vì cho rằng tui là thằng phản động thì hãy banh tai ra mà nghe tướng Việt cộng là Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an đã nói, xin trích nguyên văn:

1. Công thư không thể có giá trị pháp lý bằng Hiệp định Geneve 1954;

2.Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng thật ra là một bức công điện. Mục đích của nó không liên quan đến việc xác định chủ quyền. Nên nhớ vào năm 1958, tiềm lực quốc phòng của Mỹ ở thế áp đảo, gấp 10 lần tiềm lực quốc phòng của Trung Quốc. Tàu chiến của Mỹ suốt ngày hành trình ở bờ biển Phúc Kiến (Đài Loan), thậm chí chĩa pháo vào Trung Quốc. Khi Mỹ ép buộc Trung Quốc thì Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa khi đó là đồng minh của Trung Quốc. Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng do đó chuyển tải thông điệp là 25 triệu người Việt Nam đứng bên cạnh 650 triệu người Trung Quốc. Đó là tinh thần thực chất.

3. Điều 4 Hiệp định Geneve 1954 quy định Việt Nam Cộng hòa quản lý vùng biển đảo phía nam vĩ tuyến 17, tức bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là văn bản pháp lý quan trọng nhất và duy nhất trong thế kỷ 20 khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Phải đặt một công thư bên cạnh một hiệp định quốc tế thì chúng ta sẽ thấy rõ hiệu lực pháp lý của chúng thế nào. Có thể so sánh thế này: công thư tương đương như một văn bản cấp xã, Hiệp định Geneve thì như một văn bản của Thủ tướng chính phủ. Điều đó có nghĩa là chỉ có Hiệp định Geneve mới có thể phủ định công thư. Do vậy, giá trị pháp lý của công thư ở mức rất thấp so với Hiệp định Geneve.
Hết trích.

Đúng, công hàm 1958 không có giá trị pháp lý so với Hiệp định Geneva 1954 như tướng Việt cộng vừa nói, tuy nhiên nó lại là một "lời chứng Đông Tây tứ cận" để Tàu cộng đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông.

Đúng, Hiệp định Geneva 1954 là văn bản pháp lý cao nhứt khẳng định chủ quyền Biển Đông là của Việt Nam Cộng Hòa và sau này được Hiệp định Ba Lê 1973 kế thừa. Tuy nhiên, chính cộng sản Bắc Việt đã đơn phương vi phạm thô bạo Hiệp định Ba Lê 1973, xé bỏ Hiệp định Ba Lê, cướp nhà và đuổi chủ nhà là Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi Miền Nam và tuyên bố đơn phương rằng Hiệp định Ba Lê 1973 đã vô giá trị, hết hiệu lực.

Anh đã đơn phương vi phạm thô bạo Hiệp định Ba Lê 1973, đơn phương tuyên bố Hiệp định Ba Lê 1973 đã vô giá trị, hết hiệu lực thì anh không thể đem cái Hiệp định mà chính anh vi phạm, chính anh khẳng định nó đã chết để chỉ vào đó phân bua, tranh đấu rằng "đây, chúng tui có bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền ở Biển Đông không thể chối cãi đây".

Việt cộng có thể lừa dối nhân dân Việt Nam, cãi chày cãi cối với dân tộc mình, tráo trở lừa gạt nhân dân mình nhưng Việt cộng không thể làm những điều này với Tàu cộng, với Liên Hợp quốc được. Bởi vì Tàu cộng, Liên Hợp quốc sẽ hỏi Việt cộng "mày đã xé bỏ Hiệp định Ba Lê 1973, tuyên bố Hiệp định Ba Lê 1973 đã vô giá trị, hết hiệu lực thì sao mày lại đưa nó ra đây để cãi cùn". Người có tư cách pháp nhân để viện dẫn Hiệp định Geneva 1954 là Việt Nam Cộng Hòa với tính kế thừa hợp pháp tại Hiệp định Ba Lê 1973.

Do đó, để khẳng định chủ quyền hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông thì cộng sản Việt Nam không có tư cách pháp nhân toàn bộ mà chỉ có tư cách pháp nhân một phần với tư cách là công dân Việt Nam. Nhưng cộng sản Việt Nam muốn có được một phần tư cách pháp nhân với tư cách là công dân Việt Nam thì bắt buộc cộng sản Việt Nam phải ký ban hành văn bản hủy bỏ công hàm 1958 đã được thủ tướng Phạm Văn Đồng ký gởi. Điều này là không thể đối với cộng sản Việt Nam bởi nó đồng nghĩa với việc "mất đảng" mà Nguyễn Văn Linh đã nói "thà mất nước chớ không để mất đảng" và gần đây Nguyễn Phú Trọng đã nói "mất đảng là mất tất cả".

Cuối cùng, Việt Nam sẽ mất nếu không đuổi cổ Tàu cộng ra khỏi Biển Đông nhưng còn Việt cộng cai trị thì sẽ không bao giờ nó dám đuổi cổ Tàu cộng ra khỏi Biển Đông. Thế lực đủ tư cách để đuổi cổ Tàu cộng ra khỏi Biển Đông là nhân dân Việt Nam, căn cứ để nhân dân Việt Nam khẳng định chủ quyền hợp pháp của mình ở Biển Đông là Hiệp định Geneva như thiếu tướng công an Việt cộng Lê Văn Cương đã nói trên. Hiệp định Geneva được Hiệp định Ba Lê 1973 kế thừa. Vì vậy chỉ duy nhứt một con đường pháp lý để khẳng định chủ quyền hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông là phải quay lại thực thi nghiêm túc Hiệp định Ba Lê 1973 với nội dung chủ đạo là tổng tuyển cử tự do, trao quyền tự quyết cho nhân dân Việt Nam./.

Tran Hung.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TẠI SAO TRUNG QUỐC PHẢI SỤP ĐỖ

KIỀU CHINH VÀ CÂU TỰ HỎI "TÔI ĐÃ LÀM GÌ NÊN TỘI ?" CỦA TÁC GIẢ BÙI ANH TRINH

KHOÁC ÁO THẦY CHÙA ĐỂ CHẠY ÁN, MỘT LOẠI GIÁN ĐIỆP CỦA VIỆT CỘNG VÀ CÁCH GIỮ THỂ DIỆN CHO ĐẢNG VIỆT GIAN CỘNG SẢN