GƯƠNG GIỮ NƯỚC CỦA TIỀN NHƠN XƯA & DÃ TÂM BÁN NƯỚC CỦA VIỆT GIAN NAY

GƯƠNG GIỮ NƯỚC CỦA TIỀN NHƠN XƯA & DÃ TÂM BÁN NƯỚC CỦA VIỆT GIAN NAY

Trải qua 4.000 năm lịch sử, tuy phải sống bên cạnh dân tộc Hán, một dân tộc luôn thâm hiểm, tàn độc, cuồng bạo, luôn mang trong đầu tư tưởng xâm lăng, thôn tính lân bang mà bằng chứng là dân tộc Việt Nam đã trải qua một ngàn năm nô lệ giặc Tàu. Tuy nhiên, với tinh thần quật cường của dân tộc, tinh thần độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, các bậc tiền nhơn đã anh dũng tiên chinh đánh tan giặc Tàu phương Bắc để giành lại sự toàn vẹn lãnh thổ, độc lập về chủ quyền quốc gia bởi vì "Tuy mạnh yếu mỗi lúc khác nhau. Song hào kiệt đời nào cũng có".

Sau khi giành lại độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, các bậc tiền nhơn phải ra sức bảo vệ cương thổ quốc gia, chống xâm nhập về văn hóa, chống lệ thuộc về kinh tế vào nước Tàu phương Bắc, xây đắp phên giậu vững chắc, rèn luyện binh sĩ, đặt quân đội trong trạng thái sẵn sàng đáp trả những cuộc xâm lấn, gây binh của giặc Tàu phương Bắc,...

Ngược dòng lịch sử, chúng ta sẽ được đọc thấy rất nhiều đấng minh quân của Đại Việt luôn tỏ rõ tinh thần "vừa hòa hiếu với Bắc triều nhưng cũng rất cứng rắn với Bắc triều về chủ quyền quốc gia, độc lập về chánh trị - kinh tế - văn hóa với nước Tàu phương Bắc". Có thể kể điển hình như sau:

1. Vua Lý Nhân Tông thời triều Lý:

Thời trị vì của vua Lý Nhân Tông đã nổ ra cuộc chiến tranh giữa Đại Việt với Đại Tống bên Tàu. Năm 1076 tướng giặc Tống là Quách Quỳ đã dẫn quân sang định đánh chiếm Đại Việt nhưng đã bị quân dân nhà Lý do Thái úy Lý Thường Kiệt chỉ huy 10 vạn quân tinh như chủ động tấn công đánh sang đất Tống đang chiếm giữ để hạ 3 thành của Tống là Liêm châu, Khâm châu và Ung châu, đốt sạch các trại giặc là Vĩnh Bình, Thái Bình, Thiên Long, Cổ Vạn rồi sau đó lui về lập phòng tuyến trên sông Như Nguyệt đánh cho "tơi bời" quân xâm lược phương Bắc nước Tàu mà sử sách còn ghi dấu với bài thơ Thần Nam Quốc Sơn Hà.

Sau trận Như Nguyệt kinh thiên động địa, khiếp đảm quân Tống. Nhưng với bản chất tham lam, đánh chết cái nết không chừa, giặc Tống vẫn đóng lại 5 châu ở biên giới là Quảng Lang, Tô Mậu, Môn, Tư Lang và Quảng Nguyên. Nhà Lý tiếp tục cho quân đánh úp lấy lại được châu Tư Lang và nhân đó giải phóng cả hai châu Tô Mậu và Môn ở bên cạnh. Riêng châu Quảng Lang và Quảng Nguyên thì nhà Tống vẫn giữ.

Vua Lý Nhân Tông quyết không để mất đất của tổ tiên nên đã dùng nhiều biện pháp cả ngoại giao cả quân sự để thu hồi đất đai. Trong các năm 1077, 1078 nhà Lý đã cử sứ giả liên tục lên biên giới và qua Yên Kinh tranh biện với nhà Tống để đòi lại đất đai của tổ tiên Đại Việt.

Năm 1078, vua Lý Nhân Tông cử Đào Tông Nguyên đi sứ để đòi đất Quảng Lang và Quảng Nguyên. Vua Tống ra điều kiện phải thả các dân Ung châu, Khâm châu đã bị nhà Lý bắt năm 1075 thì mới trả đất. Nhà Lý đã đem trả một số tù binh giặc Tống bị bắt hồi năm 1075 gồm đủ cả già trẻ gái trai. Năm 1079 nhà Tống đã phải trả lại châu Quảng Nguyên cho Đại Việt.

Trong quyết định trả đất, vua nước Tống là Tống Thần Tông có chỉ dụ “Thuận Châu (tên của Quảng Nguyên sau khi bị giặc Tống cướp giữ cho đổi tên) là nơi lam chướng, dẫu được cũng không lợi ích gì, há nên dồn quân lính vào chỗ chết ư?”. Tuy nhiên dân Tống không biết đến điều này mà chế nhạo triều đình nhà Tống rằng “Tham voi Đại Việt bỏ vàng Quảng Nguyên”.

Dẫu đã lấy lại được lãnh thổ nguyên vẹn như trước khi Quách Quỳ kéo quân sang nhưng vua Lý Nhân Tông vẫn ngày đêm canh cánh vì trước đó đám thổ dân biên giới đã làm phản nhà Lý, chúng đem dâng hai động Vật Dương, Vật Ác của Đại Việt cho nhà Tống. Cụ thể động Vật Ác bị Nùng Tông Đản nộp cho nhà Tống năm 1057 và vua Tống cho đổi tên thành Thuận An. Động Vật Dương bị Nùng Trí Hội nộp cho nhà Tống vào năm 1064 và vua Tống đã đổi tên thành châu Quy Hóa.

Quyết tâm không để mất một tấc đất của tổ tiên, năm 1084, vua Lý Nhân Tông cho vời Lê Văn Thịnh lúc đó đang là Thị lang bộ Binh vào cung để cử đi lên biên giới đấu tranh đòi lại 2 động này. Trong cuộc gặp, nhà vua đã nói những lời rất giản dị nhưng cũng rất tâm huyết về vấn đề lãnh thổ quốc gia rằng “Trẫm định cử khanh làm trưởng phái bộ, cùng Nguyễn Bồi giúp sức tiếp tục nghị bàn với Tống. Hai đất Vật Dương và Vật Ác do tổ tiên để lại, trẫm vô cùng đau lòng nếu để mất hai vùng đất ấy. Khanh hãy gắng sức thương thuyết, đòi lại đất cho trẫm”. Sau thời gian tranh biện với lý lẽ quyết liệt và xác đáng của Lê Văn Thịnh, sau cùng nhà Tống trả lại đất cho Đại Việt gồm 6 huyện 3 động.

2. Vua Trần Nhân Tông thời triều Trần:

Là một vị vua anh minh đời thứ 3 của nhà Trần, lên ngôi năm 21 tuổi, trị vì 15 sau đó nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông để làm Thái thượng hoàng. Năm Kỷ Hợi 1299 ngài xuất giá tu hành ở cung Vũ Lâm - Ninh Bình, sau đó đến Yên Tử - Quảng Ninh và thành lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng.

Ngài là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ 2 năm 1285 và lần thứ ba năm 1287. Ngài đã để lại bản di chúc dặn dò con cháu, cũng là lời dặn dò cho muôn đời hậu thế nước Việt, gần ngàn năm qua vẫn còn nguyên chân giá trị, đó là "Các người chớ quên , chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ , trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu phương Bắc. Chớ coi thường chuyện vụn vặt nảy ra trên biên ải. Các việc trên khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta thì gặm nhấm ta. Họ gặm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn: Một tấc đất của Tiền nhân để lại , cũng không được để lọt vào tay kẻ khác. Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu".

3. Vua Lê Thánh Tông thời Hậu Lê:

Vua Lê Thánh Tông là vị vua rất chú trọng việc võ bị, năm 1460, khi mới lên ngôi ông đã ra sắc chỉ cho các vệ quân trong cả nước rằng “Có quốc gia là phải có võ bị. Nay phải tuân theo trận đồ nhà nước đã ban, trong địa phận của vệ mình, phải chỉnh đốn đội ngũ, dạy cho quân lính phép đi, đứng, đâm, đánh, hiểu được mịnh lịnh, tiếng chuông, tiếng trống khiến cho quân lính tập quen cung tên không quên võ bị”.

Năm 1467, niên hiệu Quang Thuận thứ 8, vua ban sắc dụ quan trấn thủ và Phó Tổng binh các vệ ở các xứ An Bang, Lạng Sơn, Tuyên Quang rằng “Các ngươi chức vụ đứng đầu một phương khống chế cả cõi biên thùy, phải phòng bị điều bất trắc, để ngăn ngừa giặc ngoại xâm. Cần phải khuyên bảo các tướng hiệu răn đe quân lính, không được quen thói cũ, bỏ trốn về nhà, để trống vị trí phòng thủ, kẻ nào trái lệnh thì trị tội nặng hơn luật thường”.

Năm 1473, vua Lê Thánh Tông ban chỉ dụ cho Thượng thư bộ Binh Lê Cảnh Huy khi xuất hiện tranh chấp biên giới với nhà Minh “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru di”.

Qua những bằng chứng lịch sử trên, các bậc tiền nhơn đã chỉ ra cho con cháu chúng ta đời đời kiếp kiếp rằng "Hán tộc phương Bắc không bao giờ từ bỏ ý định thôn tính Việt Nam". Hình thức "thôn tính cứng - bằng vũ lực" hay "thôn tính mềm - bằng ngoại giao, hợp tác, xâm thực văn hóa, ép lệ thuộc kinh tế - chánh trị,..." sẽ diễn ra theo từng giai đoạn phù hợp với xu thế thời đại nhưng vẫn có một mục đích cuối cùng là "XÁP NHẬP VIỆT NAM VÀO NƯỚC TÀU". Điểu này đích thân cố Tổng Thống Đệ Nhứt Việt Cộng Hòa đã khẳng định trong diễn văn Khánh thành đập nước Đồng Cam ở tỉnh Phú Yên vào ngày 17/9/1955 rằng "...Nếu Việt Minh thắng trong cuộc đấu tranh này, quốc gia thân yêu của chúng ta sẽ biến mất và nước chúng ta sẽ chỉ được đề cập đến như là một tỉnh phía nam của Trung Cộng. Hơn nữa nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi sống dưới ách độc tài do Mạc Tư Khoa tạo ra và sẽ bị tước mất tôn giáo, tổ quốc và gia đình".

Đó là quá khứ, còn hiện tại và tương lai thì sao ? Tàu cộng có vì "4 chữ vàng -16 chữ tốt"  hão huyền, viễn vông để không dòm ngó, manh tâm xáp nhập Việt Nam vào Trung cộng không ? Hãy nhìn ra Biển Đông, nhìn lại Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, cuộc thảm sát xảy ra ở biên giới phía Bắc, đường lưỡi bò, Vành đai - Con đường,... và đặc biệt tuyệt tác "Death by China - Chết bởi Tàu cộng" của ông Peter Navarro và rất nhiều học giả, chiến lược gia tầm cỡ thế giới khác sẽ rõ.

Vậy nhưng lũ chốp bu Việt cộng lại nhắm mắt, chìa tay cho Tàu cộng dắt mũi khi chúng ồ ạt kí hàng loạt văn kiện hợp tác với Tàu cộng, mở toang biên giới, cho xài tiền Tàu trên nước Việt, để Tàu cộng xây dựng hàng loạt nhà máy, công xưởng tại các vị trí địa chiến lược để khống chế Việt Nam và bức tử môi trường. Khốn nạn hơn khi hầu hết các nước phát triển đều nhận ra cái bẫy nợ của dự án Vành đai Con đường thì Việt cộng lại hân hoan chào đoán, nhứt quyết giao cho nhà thầu Tàu cộng làm đường cao tốc, xây sân bay,... và lưu manh hơn khi cái lưỡi bò chình ình ra đó thì Hán nô Nguyễn Phú Trọng lại quyết tâm "hợp tác khai thác chung ở Biển Đông" với Tàu cộng.

Càng khốn nạn hơn khi hiểm họa nước Việt Nam sẽ rơi vào tay Tàu cộng do sự dẫn đường, đưa lối của loài phản quốc Việt cộng thì đâu đó trên không gian mạng này lại có những loại Việt gian tru tréo rằng Tàu cộng nào muốn chiếm Việt Nam, Hán nô Nguyễn Phú Trọng còn chống Tàu cộng thì xáp nhập nỗi gì? Mật ước Thành Đô là do bịa đặt,...

Bằng trí tuệ của người con nước Việt, bằng kinh nghiệm của tiền nhơn tiên tổ, bằng sự thật đã đang và sẽ diễn ra ngay trên đất nước Việt Nam này và qua những báo động, cảnh giác của các học giả, chánh trị gia nổi tiếng thế giới thì tất cả đều là không có thật, là bịa đặt, là vu cáo việc Tàu cộng manh tâm gồm thâu thế giới mà việc thôn tính Việt Nam là những nước cờ khai cuộc sao ?

Rõ ràng bọn mang tư tưởng "ru ngủ" dân tộc Việt Nam rằng "sẽ không có việc Tàu cộng thôn tính Việt Nam" đích thị là lũ Việt gian nằm vùng xác Việt hồn Tàu, ngoài việc chúng gây mê dân tộc Việt Nam bằng những liều thuốc ngủ rằng Việt cộng chỉ sụp đổ khi kinh tế sụp đổ, hãy viết bài về kinh tế, đừng biểu tình mà rước họa vào thân,... và Tàu cộng không bao giờ có ý định xáp nhập Việt Nam, những dự án của Tàu cộng chỉ vì mục đích rúc rỉa Việt cộng mà thôi, mật ước Thành Đô là bịa đặt,... Bọn này là các cái loa tuyên truyền của Hoa Nam Tàu cộng đào tạo vậy. Hãy chung tay đánh nát những cái loa này để thể hiện tinh thần yêu nước, thương nòi./.

Tran Hung

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TẠI SAO TRUNG QUỐC PHẢI SỤP ĐỖ

NGUYỄN CHÍ DŨNG, TÊN VIỆT GIAN PHÁ TAN NƯỚC VIỆT.

KIỀU CHINH VÀ CÂU TỰ HỎI "TÔI ĐÃ LÀM GÌ NÊN TỘI ?" CỦA TÁC GIẢ BÙI ANH TRINH